Bệnh ở gà

Nguy cơ mới cho ngành chăn nuôi vịt Metapneumovirus

Table of Contents

  Trước đây Avian Metapneumovirus (aMPV) được biết đến là virus gây bệnh Sưng phù đầu trên gà (APV). Trong những năm gần đây, aMPV được phát hiện trên vịt xiêm đẻ tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc (Sun và cộng sự, 2014) và trên vịt Anh Đào tại tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc (Loor Giler và cộng sự, 2024).

  Virus này không những gây ra các triệu chứng và bệnh tích ở đường hô hấp trên, đặc biệt là vịt con mà còn ảnh hưởng đến ống dẫn trứng dẫn đến suy giảm sản lượng trứng ở vịt đẻ. Mặc dù, hiện nay Việt Nam chưa ghi nhận sự lưu hành của aMPV trên vịt nhưng nước ta có đường biên giới giáp với Trung Quốc kéo dài và hình thức nuôi vịt thả đồng còn phổ biến, nguy cơ virus xâm nhập từ thủy cầm hoang dã rất cao. Do đó, aMPV được xem như là một nguy cơ mới cho ngành chăn nuôi vịt mà người chăn nuôi cần nắm rõ.

Tình hình dịch bệnh do Avian Metapneumovirus trên vịt trên thế giới

Dịch tễ học

  Avian Metapneumovirus thuộc họ Paramyxoviridae, chi Metapneumovirus, là virus gây bệnh trên đường hô hấp ở nhiều loài gia cầm như gà tây, gà và vịt.  Ngoài ra, aMPV còn gây ra Hội chứng giảm đẻ ở gia cầm.

  aMPV được phân loại thành bốn nhóm: aMPV-A, AMPV-B, aMPV-C và aMPV-D, với khác biệt về mặt di truyền và phân bố địa lý.

  • aMPV-A và aMPV-B là hai nhóm phổ biến, đã được phát hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới (Franzo và cộng sự, 2024).
  • aMPV-C ghi nhận tại một số nước thuộc châu Âu, châu Mỹ và châu Á (Lee và cộng sự, 2007; Seal và cộng sự, 2000; Toquin và cộng sự, 2006; Wang và cộng sự, 2023),
  • aMPV-D cho đến nay được phân lập từ gà tây ở Pháp (Bayon Auboyer và cộng sự, 2000).

aMPV-C lần đầu tiên được ghi nhận là trên gà tây tại Hoa Kỳ năm 1996. Kể từ khi xuất hiện, aMPV-C đã nhanh chóng lan rộng cả về mặt địa lý lẫn tỷ lệ mắc bệnh, với các báo cáo từ nhiều quốc gia cho thấy mức độ lưu hành ngày càng gia tăng.

Năm 2014, aMPV-C lần đầu tiên được phân lập từ vịt xiêm đè tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc (Sun và cộng sự, 2014). Bệnh chủ yếu gây các triệu chứng viêm đường hô hấp trên kèm theo giảm sản lượng trứng khoảng 40-85%. Vịt mắc bệnh thường đẻ trứng có vỏ mềm, mông hoặc bị nứt.

Đến năm 2023, aMPV-C tiếp tục được ghi nhận trên vịt Anh Đào tại tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

  • Vịt mắc bệnh có các biểu hiện chảy dịch mất, mũi, viêm kết mạc và khi bệnh nặng, vịt có thể bị rụng lông, thoái hóa tế bào biểu mô, tăng tiết dịch nhầy trong khí quản, viêm xoang, khó thở, khò khè.
  • Ngoài ra, vịt còn có biểu hiện ủ rũ, xù lông, giảm ăn.
  • Trên vịt đẻ, aMPV-C gây giảm sản lượng trứng từ 10-30%, kèm theo các tổn thương như thoái hóa buồng trứng và ống dẫn trứng, màng vỏ trứng gấp nếp, dịch tiết đục trong ống dẫn trứng, xuất huyết niêm mạc, phù nề và dày thành ống dẫn trứng (Yu và cộng sự, 2024).

Bên cạnh đó, aMPV còn gây ức chế miễn dịch, tạo điều kiện cho các mầm bệnh khác xâm nhập và nhân lên, làm tình trạng bệnh lý tăng cao.

Con đường truyền lây:

Truyền ngang

  • Tiếp xúc trực tiếp với thủy cầm bệnh
  • Gián tiếp qua phương tiện vận chuyển, không khí và dụng cụ chăn nuôi.

Truyền dọc: Hiện nay chưa có nghiên cứu xác nhận aMPV có thể lây truyền theo chiều dọc từ vịt mẹ mang mầm bệnh sang vịt con, con đường truyền lây này cũng cần được lưu ý trong thực tế chăn nuôi.

Nguyên nhân

Quy trình vệ sinh chuồng trại không đảm bảo.

Các đặc tính kháng thuốc sát trùng

aMPV có nguy cơ phát tán và lây nhiễm rất cao, vì các đặc tính sau:

  • Ổn định trong khoảng pH từ 3-9
  • Bất hoạt sau 30 phút ở nhiệt độ 56°C.
  • Tồn tại đến 7 ngày khi bị sấy khô ở nhiệt độ phòng

aMPV có thể lây lan gián tiếp qua các phương tiện vận chuyển, khi các xe này tiếp xúc với phân hoặc dịch tiết từ các loài thủy cầm và chim hoang dã. Vì vậy, cần kiểm soát nghiêm ngặt phương tiện vận chuyển khi ra vào trại.

Các biện pháp để ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm vào chuồng nuôi

Thực hiện an toàn sinh học

1.Kiểm soát phương tiện vận chuyển:

  • Đi qua hồ khử trùng bằng vôi 10%, mực nước tối thiểu 20cm và pH≥13
  • Phun toàn bộ xe bằng dung dịch sát trùng glutaraldehyde pha loãng với tỷ lệ 1/200, ít nhất 10-15 phút
  • Ngâm toàn bộ lồng bắt vịt vào nước vôi 10% trước khi đưa vào khu vực bắt vịt

Hình 1. Xe đi qua hồ lăn với trước cổng trại

Hình 2. Phun sát trùng bề mặt xe trước khi vào trại

2.Kiểm soát động vật mang trùng

Các động vật trung gian truyền bệnh như chuột, ruồi... có khả năng mang và lây lan mầm bệnh cho vịt thông qua việc làm vấy nhiễm virus vào thức ăn, nước uống hoặc tiếp xúc trực tiếp với vật nuôi. Người chăn nuôi cần chủ động thực hiện các biện pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của động vật mang trùng vào trại.

  • Hopper và silo cần được đậy kín
  • Lắp đặt bẫy và tiến hành diệt chuột định kỳ 1 lần/tháng, mỗi lần kéo dài 3-4 ngày. Đối với trại có nhiều chuột thì 2 lần/tháng.
  • Phun dung dịch permethrin kết hợp với xà phòng 2% để tiêu diệt ruồi.

Trong quá trình phun, người chăn nuôi cần lưu ý không để thuốc tiếp xúc trực tiếp với người và vật nuôi để đảm bảo an toàn.

3.Kiểm soát không khí

  aMPV có khả năng lây truyền qua không khí, chủ yếu thông qua các hạt khí dung chứa dịch tiết từ đường hô hấp của vịt. (Nghiên cứu của Silke Rautenschlein và cộng sự (2024)). Nguy cơ lây lan qua không khí cao hơn trong điều kiện mật độ nuôi cao và vệ sinh chuồng trại kém.

Để kiểm soát người chăn nuôi cần đảm bảo:

  • Hệ thống thông gió đúng tiêu chuẩn
  • Sử dụng quạt hút nhằm loại bỏ không khí ô nhiễm và đưa không khí sạch vào chuồng
  • Độ ẩm trong chuồng nên duy trì trong khoảng 50-70% và nồng độ khí H2S, NH3 trong chuồng nuôi lần lượt không vượt quá 5ppm và 20ppm (theo tiêu chuẩn Việt Nam QCVN 01-79:2001).
  • Cần hạn chế tăng mật độ nuôi nhằm duy trì hiệu quả thông gió và giảm nguy cơ phát tán khí dung chứa virus trong không khí.
  • Nhiệt độ và tốc độ gió trong chuồng phải được điều chỉnh phù hợp với từng giai đoạn tuổi của đàn vịt để đảm bảo sức khỏe hô hấp.

4.Vệ sinh sàn, nền chuồng, dụng cụ chăn nuôi định kỳ

aMPV có thể tồn tại nhiều ngày trên các bề mặt như sàn chuồng, tấm đan, máng ăn và máng uống, đặc biệt trong điều kiện môi trường ẩm ướt.

Vệ sinh cơ học định kỳ nhằm loại bỏ hoàn toàn phân, rác, trấu và lông còn sót lại trong chuồng nuôi:

Các tấm sàn ngâm trong dung dịch xà phòng 5%, sau đó rửa sạch bằng máy xịt áp lực cao, bao gồm toàn bộ sàn, nền, tường và mái chuồng.

Hình 3. Vệ sinh sản chuồng định kỳ

  • Phun thuốc sát trùng lần 1 bằng dung dịch APA Clean pha loãng với liều 1/200
  • Sau khi nền chuồng khô ráo, phun dung dịch vôi 10% lên toàn bộ nền chuồng, tất cả các bề mặt tường hông bên trong chuồng, khung đỡ sàn và khu vực xung quanh quạt thông gió.

Lưu ý: không phun dung dịch vôi trực tiếp vào hệ thống giàn mát để tránh bị tắc nghẽn và hư hỏng hệ thống giàn mát.

  • Sau đó, cần để chuồng nuôi khô hoàn toàn trước khi nhập vịt để nuôi lửa mới.

Hình 4. Phun sát trùng khu vực xung quanh trại định kỳ

Thông tin sản phẩm:

Thành phần: Trong 1 lít chứa

  • Benzalkonium chloride 10%
  • Glutaraldehyde 15%

Chỉ định: Sát trùng, diệt khuẩn virus, vi trùng, bào tử nấm, Mycoplasma, nấm mốc.

Cách dùng: Vui long truy cập link tại đây

 

5.Sử dụng Intrahydrocare vệ sinh đường ống nước định kỳ

Màng sinh học bên trong đường ống nước có khả năng tích tụ chất hữu cơ, tạo điều kiện thuận lợi cho virus tồn tại và lây lan. Do đó, sau khi kết thúc mỗi lứa nuôi, người chăn nuôi cần vệ sinh hệ thống ống dẫn nước uống bằng cách:

  • Ngâm toàn bộ đường ống trong dung dịch Intrahydrocare với liều lượng 1-3% (1-3 lit pha trong 100 lít nước), ngâm tối thiểu trong thời gian 24 giờ.
  • Xả đường ống nước bằng nước sạch cho đến khi quan sát nước chảy ra từ đường ống cấp nước không còn cặn bẩn, đảm bảo loại bỏ hoàn toàn các mảng bám sinh học bên trong đường ống nước.
  • Trong quá trình nuôi, cần vệ sinh đường ống nước định kỳ 5 ngày/lần, nên thực hiện vào buổi chiều, sau khi vịt đã ăn uống đầy đủ nhằm tránh tình trạng vịt khát nước vào buổi trưa nóng.

>>Việc làm sạch đường ống và thiết bị uống giúp đường ống nước luôn sạch sẽ, hạn chế nguy cơ lây lan mầm bệnh qua đường tiêu hóa.

Hiện nay, Việt Nam chưa ghi nhận sự lưu hành của aMPV trên vịt. Tuy nhiên, nước ta có đường biên giới giáp với Trung Quốc kéo dài cùng với hình thức nuôi vịt thả đồng vẫn còn phổ biến ở nhiều địa phương, nguy cơ virus xâm nhập từ thủy cầm hoang dã rất cao. Vì vậy, để ngăn ngừa nguy cơ xâm nhập và lây lan của aMPV, người chăn nuôi cần mua con giống ở những cơ sở có uy tín và tăng cường các biện pháp an toàn sinh học.

Tài liệu tham khảo

Guige Xu và cộng sự, 2024. Phân lập và mô tả đặc điểm của một loại virus gây viêm phổi gia cầm phân nhóm C lưu hành ở vịt Cherry Valley. Khoa học Gia cầm, 104:2.

Shikal Sun và cộng sự, 2014. Phân lập và mô tả đặc điểm của một loại virus gây bệnh viêm phổi gia cầm phân nhóm C lưu hành ở vịt xiêm tại Trung Quốc. Vet Res. 25 tháng 7 năm 2014:45(1):74.

Để lại một bình luận